Antisocial là gì và nó khác với xã hội như thế nào? •

“Ansos” là một từ viết tắt hiện đại được giới trẻ Indonesia phổ biến, xuất phát từ từ viết tắt của “phản xã hội”. Thuật ngữ này thường được sử dụng cho những người bị coi là xa cách, không có bạn bè và "không phải là tiếng lóng".

Nhiều người vẫn hiểu sai trong cách giải thích hoặc sử dụng thuật ngữ này để che khuất ý nghĩa thực sự của nó. Sự thay đổi ý nghĩa này do ảnh hưởng của văn hóa hiện đại khiến "ansos" và "antiocial" được coi là quá bình thường và thường bị đánh đồng với asocial.

Antisocial không giống như hướng nội

Các đặc điểm tính cách hướng nội thường được cho là nhút nhát, ám ảnh xã hội, hoặc thậm chí trốn tránh các tình huống xã hội. Nhưng đừng nhầm. Nhiều người hướng nội hòa nhập xã hội dễ dàng; họ chỉ thoải mái hơn khi không giao tiếp với xã hội.

Khi giao tiếp xã hội, các tín hiệu được gửi bởi hạch hạnh nhân và hạch nhân (các bộ phận của não liên quan đến niềm vui và hệ thống khen thưởng) trong não hướng nội không kích hoạt tích cực như người hướng ngoại. Kết quả là, nếu người hướng ngoại cảm thấy vui vẻ khi giao tiếp xã hội, thì người hướng nội không cảm thấy như vậy.

Người hướng nội cũng có xu hướng sử dụng thùy trán nhiều hơn, đây là phần não phụ trách việc lập kế hoạch, suy nghĩ giải quyết vấn đề và ghi nhớ. Người hướng nội không sợ các hoạt động xã hội, nhưng có vẻ như vậy vì họ có xu hướng xử lý mọi thứ trong nội tâm và suy nghĩ trước khi nói.

Tóm lại, ansos và hướng nội là hai thuật ngữ hoàn toàn trái ngược nhau trong tâm lý học.

Điều quan trọng là phải hiểu rằng sống nội tâm chỉ là một loạt các kiểu tính cách, và hoàn toàn không phải là một rối loạn nhân cách. Đây là kết quả của sự hình thành của nhiều yếu tố khác nhau, cả bên trong và bên ngoài.

Vậy, phản xã hội là gì?

Rối loạn nhân cách là một tình trạng được hình thành từ kinh nghiệm cá nhân và hành vi lệch lạc, các triệu chứng thường xuất hiện sớm ở tuổi vị thành niên hoặc thanh niên, ổn định theo thời gian và dẫn đến đau khổ hoặc khuyết tật cá nhân.

Rối loạn nhân cách là một tình trạng sức khỏe tâm thần nghiêm trọng ảnh hưởng đến cách một người suy nghĩ, cảm nhận, chấp nhận ý tưởng hoặc quan hệ với người khác.

Rối loạn nhân cách chống xã hội được đặc trưng bởi các kiểu hành vi bóc lột, lừa dối, phớt lờ luật pháp, vi phạm quyền của người khác và bạo lực (có xu hướng phạm tội) mà không có động cơ rõ ràng hoặc hợp lý. Những người mắc chứng rối loạn chống đối xã hội sẽ có tiền sử về các vấn đề hành vi trong thời thơ ấu, chẳng hạn như trốn học, vi phạm các chuẩn mực (ví dụ, phạm tội hoặc lạm dụng chất kích thích), và các hành vi phá hoại hoặc hung hăng khác.

Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng chống đối xã hội có thể khác nhau. Một dạng hành vi có vẻ đặc biệt nguy hiểm, bạo lực và khủng khiếp được gọi là rối loạn tâm thần hoặc xã hội. Vẫn còn nhiều tranh luận về tính chính xác của các mô tả về hai người, nhưng hành vi bệnh lý xã hội được đặc trưng bởi một lương tâm thiếu sót; biết đúng sai nhưng họ bỏ ngoài tai. Trong khi một kẻ thái nhân cách có đặc điểm là thiếu lương tâm (hoặc không hề có).

Vì xu hướng lôi kéo này, người bình thường sẽ khó có thể phân biệt được ai là trung thực hay không trung thực qua từng lời nói của họ.

Sự khác biệt giữa phản xã hội và không xã hội là gì?

Mặt khác, asocial là một rối loạn chức năng nhân cách được đặc trưng bởi sự thoái lui và tự nguyện tránh bất kỳ tương tác xã hội nào. Một asocial có xu hướng thờ ơ với người khác, đôi khi thô lỗ.

Hành vi chống đối xã hội khác với hành vi chống đối xã hội, ở chỗ, hành vi chống đối xã hội bao hàm sự căm ghét người khác hoặc chống đối người khác hoặc trật tự xã hội chung. Các đặc điểm xã hội thường thấy ở một số người hướng nội, nhưng tính xã hội cực đoan thường xuất hiện ở những người có một số tình trạng lâm sàng, chẳng hạn như rối loạn lưỡng cực, tự kỷ, tâm thần phân liệt, trầm cảm, hội chứng Asperger và trầm cảm. rối loạn lo âu xã hội.

ĐỌC CŨNG:

  • Sự khác biệt giữa một kẻ thái nhân cách và một kẻ sát nhân xã hội
  • Đặc điểm của một người mắc chứng tự ái
  • Nhận biết đặc điểm của những người có nguy cơ tự tử