Có nhiều loại bệnh đậu mùa, làm thế nào để điều trị?

Có lẽ hầu hết mọi người chỉ biết đến một dạng bệnh đậu mùa, đó là bệnh trái rạ. Thủy đậu hay trái rạ là một trong những bệnh truyền nhiễm ngoài da rất phổ biến. Hầu hết các trường hợp thủy đậu xảy ra ở trẻ em. Tuy nhiên, bạn có biết liệu mình có nguy cơ phát triển một loại bệnh đậu mùa khác trong tương lai sau khi khỏi bệnh này hay không, cụ thể là bệnh zona? Đúng. Có một số dạng đậu mùa khác với các mức độ nặng nhẹ khác nhau nên bạn cần hết sức lưu ý.

Các loại bệnh đậu mùa do varicella-zoster gây ra

nhiễm virus varicella-zoster có thể gây ra hai loại bệnh đậu mùa, đó là bệnh thủy đậu và bệnh zona hoặc herpes zoster. Loại virus này ban đầu lây nhiễm qua đường hô hấp sau đó virus lây lan trong mạch máu và gây nhiễm trùng ở mô da.

Cả bệnh thủy đậu và bệnh zona đều có những triệu chứng đặc trưng riêng, mặc dù nguyên nhân là giống nhau. Do đó, các bước điều trị cũng khác nhau. Làm thế nào mà cùng một bệnh nhiễm virut lại tạo ra các loại bệnh da liễu khác nhau?

1. Bệnh thủy đậu (thủy đậu)

Triệu chứng chính của bệnh thủy đậu được đặc trưng bởi sự xuất hiện của phát ban trên da dưới dạng các nốt đỏ gây ngứa dữ dội. Một đến hai ngày trước khi xuất hiện các triệu chứng chính, những người bị nhiễm loại đậu mùa này đầu tiên sẽ bị sốt và các triệu chứng giống như cúm.

Trong vòng vài ngày, phát ban sẽ biến thành mụn nước hoặc mụn nước chứa đầy dịch. Sau đó, chất đàn hồi sẽ xẹp xuống thành các nốt sẩn trước khi khô lại để tạo thành vảy.

Bệnh thủy đậu là một loại bệnh được tự giới hạn, nghĩa là nhiễm trùng này có thể tự lành. Quá trình phát triển của bệnh thủy đậu cho đến khi vảy tự bong ra và trong vòng 24 giờ không xuất hiện ban trên da nữa, thường diễn ra trong 2-3 tuần.

Điều trị bệnh thủy đậu

Điều trị loại đậu mùa này nhằm mục đích rút ngắn thời gian lây nhiễm để bệnh nhanh lành hơn, đồng thời kiểm soát các triệu chứng. Tuy nhiên, căn bệnh này hoàn toàn có thể phòng ngừa được thông qua việc tiêm phòng.

Đối với các triệu chứng ban đầu của sốt, sử dụng thuốc giảm đau như acetaminophen có thể là một lựa chọn. Trong khi đó, thuốc kháng vi-rút như acyclovir tập trung vào việc ức chế nhiễm trùng có thể được tiêm trong vòng 24 giờ sau khi phát ban da đầu tiên xuất hiện.

Những cơn ngứa do loại đậu mùa này gây ra có thể rất khó chịu, đặc biệt là vào ban đêm, khiến người bệnh không ngừng gãi vùng da bị bệnh. Do đó, bác sĩ cũng thường cho các loại thuốc như thuốc kháng histamine.

Ngoài việc sử dụng các loại thuốc điều trị bệnh thủy đậu, có thể thực hiện các bước chăm sóc hỗ trợ khác nhau để khắc phục căn bệnh này, một trong số đó là cách tắm thủy đậu bằng hỗn hợp cháo bột yến mạch và muối nở.

2. Bệnh đậu mùa (herpes zoster)

Loại bệnh thủy đậu này cũng thường được gọi là Tấm lợp hoặc bệnh zona là do phát ban trên da có màu đỏ rực và hình thái phân bố thành đám và hình tròn ở một vùng trên cơ thể.

Nhiều người nghi ngờ ai đó sẽ mắc bệnh zona khi một người đã mắc bệnh thủy đậu lần thứ hai. Trên thực tế, bệnh zona không phải do tái nhiễm vi rút varicella-zoster.

Vào thời điểm bạn bị thủy đậu và khỏi bệnh, virus này vẫn chưa biến mất khỏi cơ thể bạn. Virus varicella-zoster có thể sống và "ngủ" trong hệ thần kinh trong nhiều năm trước khi tái hoạt động thành bệnh zona.

Thật dễ dàng để phân biệt giữa bệnh zona và bệnh thủy đậu. Ngoài hình thức phát ban lan rộng, loại thủy đậu này còn gây ra cảm giác đau đớn và bỏng rát trên da. Tình trạng này là do các tế bào thần kinh bị tổn thương do sự tái hoạt của virus.

Điều trị bệnh đậu mùa

Loại bệnh đậu mùa này thường gặp ở những người trên 60 tuổi. Tuy nhiên, những người bị suy giảm hệ miễn dịch như phụ nữ mang thai và người nhiễm HIV / AIDS cũng có nguy cơ mắc bệnh thủy đậu cao.

Ngoài việc sử dụng thuốc kháng vi rút như acyclovir, để giảm đau, điều trị bệnh zona thường được kết hợp với các loại thuốc corticosteroid như prednisone và thuốc giảm đau. Liều lượng cần thiết sẽ được bác sĩ điều chỉnh theo mức độ nghiêm trọng của cơn đau.

Các loại bệnh đậu mùa thuộc họ vi rút đậu mùa

Virus thuộc giống Orthopoxvirus gây bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa), bệnh đậu khỉ, và bệnh u mềm lây gây ra các triệu chứng chính của các bệnh ngoài da tương tự như bệnh thủy đậu.

Ba căn bệnh đậu mùa này thực ra không phổ biến ở Indonesia, thậm chí một trong những loài của nó đã bị Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố tuyệt chủng vào cuối những năm 1980.

Không giống như bệnh thủy đậu và bệnh đậu mùa, thường tấn công các nhóm tuổi nhất định, loại bệnh đậu mùa này có thể gây hại cho bất kỳ ai. Mỗi loại có một tiêu chí bệnh đặc trưng, ​​thường được phân biệt bằng các triệu chứng.

Đậu mùa là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất trước khi có vắc-xin, bệnh đậu mùa ở khỉ có mức độ nghiêm trọng của bệnh, trong khi u mềm lây có khả năng trở thành bệnh lây truyền qua đường tình dục khi nó tấn công bộ phận sinh dục.

Sau đây là giải thích về các triệu chứng, nguyên nhân và cách điều trị ba loại bệnh đậu mùa.

1. Bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa)

Loại vi rút gây ra bệnh đậu mùa hoặc đậu mùa là variola. Đặc điểm chính của bệnh đậu mùa là sự lan rộng của các mụn nước hoặc mụn nước chứa đầy mủ trên khắp cơ thể. Các triệu chứng tương tự như bệnh thủy đậu, không phải hiếm khi cả hai thường được đánh đồng với nhau.

Tuy nhiên, loại bệnh đậu mùa này đã được tuyên bố tuyệt chủng từ năm 1980. Ca bệnh cuối cùng được ghi nhận là một trường hợp ở châu Phi vào năm 1977. Trước đó, bệnh đậu mùa đã trở thành một dịch bệnh nguy hiểm cướp đi sinh mạng của nhiều người từ thế kỷ 18.

Việc tiêu diệt tận gốc bệnh đậu mùa là một trong những thành tựu to lớn của ngành y học, điều này không thể tách rời với chương trình vắc xin đậu mùa không ngừng được thực hiện trong nhiều thập kỷ. Vắc xin đậu mùa là vắc xin đầu tiên được sản xuất để ngăn chặn căn bệnh do nhiễm vi rút gây ra.

Không có phương pháp điều trị cụ thể cho loại bệnh đậu mùa này. Mặc dù vắc-xin có thể được sử dụng để phòng ngừa các bệnh tương tự, vắc-xin đậu mùa hiện tại có thể khó kiếm được do loại bệnh đậu mùa này rất hiếm.

2. Bệnh đậu mùa khỉ (bệnh đậu mùa khỉ)

Monkey pox aka bệnh đậu mùa khỉ là một bệnh truyền nhiễm do nhiễm vi rút hiếm gặp. Vi rút này là vi rút lây truyền từ động vật sang động vật hoặc vi rút có nguồn gốc từ động vật. Trước đây khỉ là vật chủ chính của virus bệnh đậu mùa khỉ. Do đó, bệnh này được gọi là bệnh đậu khỉ.

Các triệu chứng của bệnh này thường tương tự như bệnh đậu mùa (bệnh đậu mùa), nhưng kèm theo các vấn đề sức khỏe như sốt, phát ban da phồng rộp và sưng hạch bạch huyết ở nách.

Từ trường hợp bệnh đậu mùa khỉ đã được tìm thấy. Sự lây truyền của loại đậu mùa này ban đầu diễn ra từ sự tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp giữa người và động vật hoang dã bị nhiễm bệnh.

Trong khi đó, sự lây truyền bệnh đậu mùa ở người được cho là xảy ra khi tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương da, dịch cơ thể, các giọt chất nhầy tiết ra khi hắt hơi và ho, và tiếp xúc với vật liệu bị nhiễm vi rút đậu mùa khỉ.

Sự nguy hiểm của căn bệnh này có thể được ngăn chặn một cách hiệu quả thông qua vắc xin. Trong khi đó, thuốc kháng vi-rút để điều trị bệnh thủy đậu vẫn đang được nghiên cứu thêm. Loại cidofovir hoặc tecovirimat cho đến nay vẫn là một loại thuốc kháng vi-rút hiệu quả giúp chữa khỏi trong một số trường hợp. Thuốc chủng ngừa đậu mùa có thể giúp ngăn ngừa loại bệnh đậu mùa này.

3. U mềm lây

Nhiễm trùng u mềm lây gây phát ban đỏ hoặc phát ban. Nốt thường có kích thước từ 2-5 mm với một đốm ở trung tâm.

Các nốt nhỏ này có thể xuất hiện trên da ở các bộ phận của cơ thể bị ảnh hưởng bởi vi rút, chẳng hạn như trên mặt, mí mắt, nách, thân và đùi (bẹn). Không giống như các loại đậu mùa khác, triệu chứng này không xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và miệng.

Sự xuất hiện của một cục u thường không kèm theo viêm, trừ khi bạn gãi vào vùng da bị ảnh hưởng, phát ban sẽ lan rộng theo hàng, một tình trạng được gọi là một vụ mùa.

Nếu loại đậu mùa này xuất hiện trên mí mắt, nó có thể gây ra các triệu chứng của bệnh đau mắt đỏ cũng dễ lây lan.

U mềm lây sẽ tự khỏi sau vài tuần. Loại đậu mùa này thường không để lại sẹo.