Nhận biết các bệnh dịch đặc hữu ở Indonesia cần được theo dõi

Mọi bệnh truyền nhiễm đều cần được đề phòng lây lan, cả trên phạm vi rộng như phạm vi cả nước hay phạm vi hẹp hơn trong thành phố. Các bệnh truyền nhiễm luôn xuất hiện ở một số khu vực hoặc quần thể nhất định còn được gọi là bệnh đặc hữu.

Không giống như bùng phát hoặc đại dịch, sự lây lan của các bệnh dịch rất chậm để có thể kiểm soát được số trường hợp mắc bệnh. Tuy nhiên, Indonesia vẫn đang phải đối phó với một số căn bệnh lưu hành đe dọa sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu những căn bệnh lưu hành đang tồn tại ở Indonesia và cách ngăn chặn sự lây truyền của chúng.

Bệnh đặc hữu là gì?

Bệnh đặc hữu là bệnh luôn phát hiện trong một quần thể, một khu vực địa lý nhất định.

Căn bệnh dễ lây lan này có thể nói là căn bệnh điển hình đặc trưng cho một vùng. Một ví dụ về căn bệnh lưu hành là sốt rét, bệnh thường được tìm thấy ở Papua.

Trong dịch tễ học, tình trạng lây lan bệnh tật này được gọi là bệnh dịch đặc hữu.

Tuy nhiên, theo mô tả nghiên cứu từ tạp chí Hiệp hội Vi sinh học Hoa Kỳ, tốc độ lây lan của các bệnh dịch lưu hành không cao như các bệnh được phân loại thành dịch, bệnh dịch, đại dịch.

Theo định nghĩa, một đợt bùng phát xảy ra khi các trường hợp mắc bệnh tăng nhanh và lây lan rộng rãi trong một quần thể hoặc trong một mùa nhất định.

Dịch là tình trạng dịch lan ra nhiều quốc gia khác nhau ngoài khu vực phát sinh dịch bệnh.

Trong khi đại dịch là một bệnh dịch trên quy mô toàn cầu, nơi một căn bệnh đã lây lan rộng rãi trên toàn thế giới, ví dụ như COVID-19.

Chà, sự lây lan của các dịch bệnh trên diện rộng như dịch bệnh và đại dịch có thể trở thành đại dịch trong một khu vực.

Mặc dù có thể sống sót, nhưng tần suất xuất hiện của các bệnh dịch khá thấp, có thể dự đoán được, thậm chí hiếm gặp.

Các yếu tố khác nhau có thể khiến một bệnh truyền nhiễm tồn tại trong một khu vực, cả nhiễm trùng do vi khuẩn và vi rút.

Những yếu tố này bao gồm khí hậu, mật độ dân số, sự tiến hóa của các sinh vật lây nhiễm, đến tình trạng di truyền của những người trong một quần thể.

Lý do tại sao sốt rét, một trong những căn bệnh đặc hữu, không còn là bệnh đặc hữu ở lục địa châu Phi mà đã trở thành một căn bệnh đặc hữu ở một số vùng, đó là vì hầu hết mọi người đều mang gen hồng cầu hình liềm.

Đặc điểm di truyền này giúp chúng miễn nhiễm với sự lây truyền bệnh sốt rét.

Các loại dịch bệnh đặc hữu ở Indonesia

Cho đến nay, Indonesia vẫn không thoát khỏi mối đe dọa của một số dịch bệnh lưu hành.

Có thể, trong một số mùa nhất định, các bệnh đặc hữu có thể phát triển để gây ra các vụ bùng phát hoặc thậm chí là các sự kiện bất thường trong một khu vực.

Các loại bệnh đặc hữu mà bạn cần lưu ý như sau:

1. Sốt xuất huyết

Hầu như năm nào cũng có sự gia tăng các trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết xảy ra trong mùa mưa ở Indonesia.

Sốt xuất huyết do muỗi đốt Aedes aegypti mang vi rút sốt xuất huyết (flavivirus) khỏi nhóm vi rút gây bệnh sốt vàng da và vi rút Zika.

Căn bệnh lưu hành này có thể gây sốt cao (có thể lên đến 40), suy nhược cơ thể, đau cơ và khớp.

Các triệu chứng có thể dẫn đến sốc nhiễm trùng dẫn đến tổn thương các cơ quan.

Vì vậy, bệnh sốt xuất huyết cần được điều trị nội khoa tại bệnh viện để duy trì sự cân bằng của chất lỏng trong cơ thể.

Người ta ước tính rằng nhiễm vi rút sốt xuất huyết khiến 500.000 người trên thế giới phải nhập viện mỗi năm.

Để phòng chống bệnh sốt xuất huyết, bạn có thể thực hiện chương trình 3M bằng cách đóng thùng rác, thoát nước bồn tắm và tái chế đồ đã qua sử dụng.

sương mù Ở những khu vực lưu hành bệnh, chính phủ cũng thường tiến hành diệt trừ hoặc giảm số lượng muỗi gây ra SXHD.

2. Bệnh sởi

Sởi là một bệnh truyền nhiễm có tốc độ lây truyền khá cao. Bệnh này là do nhiễm morbilivirus (Paramyxoviridae) lây truyền qua không khí (khí dung).

Đó là lý do tại sao, một người bị nhiễm bệnh có thể truyền vi rút sởi cho 12-16 người khỏe mạnh khác.

Căn bệnh đặc hữu này thường lây nhiễm cho trẻ em. Các triệu chứng do bệnh sởi gây ra bao gồm sốt, ho, đỏ mắt, viêm đường hô hấp trên và phát ban trên da.

Tuy nhiên, sự lây lan của căn bệnh lưu hành này đã được ngăn chặn hiệu quả thông qua tiêm chủng.

Ở Indonesia, việc chủng ngừa bệnh sởi thông qua vắc-xin MMR ở trẻ em dưới 1 tuổi được biết là đã thành công trong việc giảm số ca mắc bệnh kể từ năm 2014.

Mặc dù các ca bệnh sởi có thể được kiểm soát tốt, nhưng một nghiên cứu trên tạp chí Đánh giá quan trọng trong vi sinh giải thích rằng trung bình vẫn có 5-6 ca mắc sởi trên 100.000 dân ở Indonesia trong năm 2014-2015.

3. Bệnh dại

Bệnh dại là một bệnh lây truyền từ động vật sang người thường bắt nguồn từ vết cắn của động vật như chó, chuột hoặc dơi.

Ở Indonesia, bệnh dại là một bệnh đặc hữu ở Bali và Nusa Tenggara.

Việc lây lan bệnh dại trong khu vực xuất phát từ những vết cắn của những con chó hoang dã. Vì lý do này, bệnh dại còn được gọi là bệnh chó điên.

Căn bệnh lưu hành này là do nhiễm vi rút lyssavirus tấn công hệ thần kinh và não.

Năm 2008-2010, hầu hết các trường hợp mắc bệnh dại ở Indonesia không được điều trị ngay đã dẫn đến tử vong.

Tương tự như bệnh sởi, tin tốt là sự lây lan của bệnh dại ở Indonesia có thể được kiểm soát thông qua việc tiêm chủng toàn diện tại các khu vực bị ảnh hưởng.

Thuốc chủng ngừa bệnh dại không chỉ được cung cấp cho cộng đồng, mà còn cho phần lớn dân số chó (70%) ở Bali và Nusa Tenggara.

4. Viêm gan A

Viêm gan A là một bệnh đặc hữu ở Indonesia, thường xảy ra ở những khu vực có hệ thống vệ sinh kém.

Virus viêm gan A (HAV) có thể lây lan dễ dàng qua thức ăn và đồ uống bị ô nhiễm.

Vì vậy, việc áp dụng các hành vi lối sống lành mạnh như siêng năng rửa tay và chế biến thực phẩm đúng cách là chìa khóa để ngăn ngừa bệnh viêm gan.

Nhiễm HAV có thể không gây ra các triệu chứng ở một số người, nhưng nó có xu hướng xảy ra ở người cao tuổi.

Số trường hợp mắc căn bệnh lưu hành này tiếp tục giảm hàng năm ở Indonesia kể từ khi chính phủ thúc đẩy tiêm chủng viêm gan A. Có thể tiêm vắc xin viêm gan A từ khi trẻ được 2 tuổi.

5. Sốt rét

Một bệnh đặc hữu khác lây truyền qua muỗi đốt là bệnh sốt rét. Căn bệnh này đặc biệt lưu hành ở những vùng có khí hậu nhiệt đới.

Bệnh sốt rét do muỗi Anopheles cái mang ký sinh trùng Plasmodium gây ra.

Khi muỗi nhiễm plasmodium này xâm nhập vào cơ thể, một người có thể gặp các triệu chứng như sốt, ớn lạnh, nhức đầu, buồn nôn và nôn mửa.

Những bệnh nhiễm ký sinh trùng này cũng có thể diễn ra trong mạch máu và gây ra một số biến chứng, bao gồm thiếu máu, rối loạn thận và rối loạn tiểu cầu như giảm tiểu cầu.

Bệnh này không được tìm thấy ở nhiều vùng ở Indonesia. Tuy nhiên, bạn cần tránh lây truyền bệnh sốt rét khi đi du lịch đến các khu vực có nguy cơ cao.

Phòng bệnh sốt rét có thể được thực hiện bằng cách uống các loại thuốc trị sốt rét như chloroquine, giữ môi trường sống sạch sẽ, thoa kem dưỡng da chống muỗi lên cơ thể.

So với các bệnh trong danh mục dịch và đại dịch, mức độ lây lan của các bệnh dịch vẫn trong tầm kiểm soát.

Tuy nhiên, bạn vẫn cần tránh những nguy hiểm gây ra bằng cách nỗ lực ngăn chặn sự lây truyền của bệnh.

Cùng nhau chiến đấu với COVID-19!

Hãy cùng theo dõi những thông tin và câu chuyện mới nhất về các chiến binh COVID-19 xung quanh chúng ta. Hãy tham gia cộng đồng ngay bây giờ!

‌ ‌