Các loại thuốc chống lao để điều trị lao

Mặc dù phải mất nhiều thời gian nhưng bệnh lao (TBC) vẫn có thể chữa khỏi hoàn toàn bằng cách uống đúng thuốc và luôn tuân thủ các quy tắc uống thuốc lao. Nguyên nhân là, nếu điều trị lao không thành công, căn bệnh này sẽ ngày càng khó chữa. Bản thân việc điều trị bệnh lao bao gồm hai giai đoạn bằng cách sử dụng kết hợp nhiều loại kháng sinh.

Những loại kháng sinh nào được sử dụng cho bệnh lao và quy tắc dùng thuốc như thế nào? Xem giải thích đầy đủ hơn về điều trị lao trong bài đánh giá sau.

Hai giai đoạn điều trị lao ở Indonesia

Bệnh lao xảy ra khi vi khuẩn gây bệnh lao, cụ thể là: Mycobacterium tuberculosis, tích cực lây nhiễm hoặc nhân lên trong cơ thể (lao hoạt động). Bệnh lao tấn công phổi có thể được chữa khỏi bằng cách điều trị từ 6-9 tháng.

Hình thức điều trị lao ở Indonesia bao gồm 2 giai đoạn, đó là giai đoạn điều trị tích cực và điều trị theo dõi.

Báo cáo từ Trung tâm Thông tin Thuốc Quốc gia, trong hai giai đoạn điều trị, bệnh nhân đã uống thuốc lao, kháng sinh và thuốc chống nhiễm khuẩn tổng hợp.

Điều trị được thực hiện với sự kết hợp của một số loại kháng sinh được gọi là nhóm chống lao. Các loại thuốc được sử dụng hoạt động cho 3 chức năng lâm sàng, đó là tiêu diệt, khử trùng (làm sạch cơ thể) và ngăn ngừa vi khuẩn kháng thuốc (miễn dịch).

1. Giai đoạn chuyên sâu

Đang trong giai đoạn điều trị tích cực , Bệnh nhân cần uống thuốc lao hàng ngày trong vòng 2 tháng. Điều trị chuyên sâu nhằm mục đích ngăn chặn số lượng vi khuẩn gây bệnh lao và ngăn chặn sự lây nhiễm để bệnh nhân không còn khả năng truyền bệnh.

Hầu hết bệnh nhân có tình trạng nhiễm trùng có khả năng trở thành không lây nhiễm (không lây nhiễm) trong vòng 2 tuần nếu họ được điều trị tích cực đúng cách. Loại thuốc điều trị lao được sử dụng trong giai đoạn này có thể khác nhau, tùy thuộc vào phác đồ điều trị phù hợp với từng loại bệnh nhân.

Hạng mục bệnh nhân lao

Phân loại của chính bệnh nhân được xác định từ lịch sử điều trị và kết quả AFB (kiểm tra đờm). Nhìn chung, có 3 loại bệnh nhân lao, đó là:

  • Trường hợp mới loại I

    Bệnh nhân phết tế bào dương tính nhưng chưa được điều trị chống lao dưới 4 tuần, hoặc phết tế bào âm tính với bệnh lao ngoài phổi nặng (nhiễm vi khuẩn ảnh hưởng đến các cơ quan khác ngoài phổi).

  • Tái phát loại II

    Những bệnh nhân đã được tuyên bố khỏi bệnh sau khi hoàn thành điều trị, nhưng kết quả AFB trở lại dương tính.

  • Trường hợp không thành công loại II

    Bệnh nhân AFB vẫn dương tính hoặc dương tính trở lại sau 5 tháng điều trị.

  • Điều trị loại II bị gián đoạn

    Những bệnh nhân đã được điều trị, nhưng ngừng thuốc và trở lại với kết quả phết tế bào hoặc X quang dương tính cho thấy tình trạng lao còn hoạt động.

  • Loại III

    Bệnh nhân có kết quả chụp X-quang dương tính với tình trạng lao ngoài phổi nhẹ.

  • Bệnh nhân mãn tính

    Bệnh nhân AFB vẫn dương tính sau khi điều trị lại.

Bệnh nhân phết tế bào âm tính và bị lao ngoài phổi có thể nhận được một lượng thuốc nhỏ hơn ở giai đoạn này.

2. Giai đoạn nâng cao

Trong giai đoạn điều trị tiên tiến, số lượng và liều lượng thuốc điều trị lao sẽ được giảm bớt. Thường chỉ có 2 loại thuốc. Tuy nhiên, thời gian thực sự kéo dài hơn, khoảng 4 tháng ở những bệnh nhân thuộc loại ca bệnh mới.

Giai đoạn điều trị tiếp theo là rất quan trọng để đảm bảo rằng vi khuẩn không lây nhiễm tích cực (không hoạt động) được loại bỏ hoàn toàn khỏi cơ thể, do đó ngăn ngừa các triệu chứng lao tái phát.

Không phải tất cả bệnh nhân lao đều cần được điều trị tích cực và theo dõi tại bệnh viện. Tuy nhiên, đối với những trường hợp nặng (khó thở dữ dội hoặc có các triệu chứng lao ngoài phổi), bệnh nhân cần phải nhập viện.

Các loại thuốc điều trị lao đầu tiên

Có 5 loại thuốc điều trị lao thường được kê đơn, đó là:

  • isoniazid
  • Rifampicin
  • Pyrazinamide
  • ethambutol
  • Strptomycin

Năm loại thuốc điều trị lao kể trên thường được gọi là thuốc chính hoặc thuốc đầu tay.

Trong mỗi giai đoạn điều trị lao, bác sĩ sẽ cho kết hợp nhiều loại thuốc chống lao. Sự kết hợp của các loại thuốc lao và liều lượng của chúng được xác định dựa trên tình trạng và loại bệnh nhân lao để chúng có thể khác nhau.

Sau đây là phần giải thích về từng loại thuốc điều trị lao đầu tiên:

1. Isoniazid (INH)

Isoniazid là loại thuốc chống lao hiệu quả nhất để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh lao. Thuốc này có thể tiêu diệt 90% vi trùng lao trong vài ngày ở giai đoạn điều trị tích cực.

Isoniazid có hiệu quả hơn trong việc tiêu diệt vi khuẩn đang phát triển tích cực. Thuốc này hoạt động bằng cách can thiệp vào việc sản xuất axit mycolic , là một hợp chất có vai trò xây dựng thành vi khuẩn.

Một số tác dụng phụ của thuốc lao isoniazid bao gồm:

  • Ảnh hưởng đến thần kinh, như rối loạn thị giác, chóng mặt, mất ngủ, hưng phấn, thay đổi hành vi, trầm cảm, rối loạn trí nhớ, rối loạn cơ.
  • Quá mẫn, chẳng hạn như sốt, ớn lạnh, đỏ da, sưng hạch bạch huyết, viêm mạch (viêm mạch máu).
  • Tác dụng huyết học, chẳng hạn như thiếu máu, tan máu (phá hủy các tế bào hồng cầu), giảm tiểu cầu (giảm mức độ tiểu cầu).
  • Rối loạn đường tiêu hóa: buồn nôn, nôn, táo bón, ợ chua.
  • Nhiễm độc gan: tổn thương gan do hóa chất trong thuốc.
  • Các tác dụng phụ khác: nhức đầu, hồi hộp, khô miệng, bí tiểu, thấp khớp.

Nếu bạn bị bệnh gan mãn tính, các vấn đề về chức năng thận hoặc tiền sử động kinh, hãy nói với bác sĩ của bạn. Bằng cách đó, việc quản lý isoniazid sẽ cẩn thận hơn. Ngoài ra, những người uống rượu, bia trên 35 tuổi và phụ nữ có thai phải được giám sát đặc biệt.

2. Rifampicin

Thuốc này là một loại kháng sinh có nguồn gốc từ rifamicin, giống như isoniazid. Rifampicin có thể tiêu diệt vi trùng mà thuốc isoniazid không làm được.

Rifampicin có thể tiêu diệt vi khuẩn nửa hoạt động thường không phản ứng với isoniazid. Thuốc này hoạt động bằng cách can thiệp vào các enzym của vi khuẩn.

Một số tác dụng phụ có thể xảy ra khi điều trị lao bằng rifampicin là:

  • Rối loạn tiêu hóa, chẳng hạn như ợ chua, đau bụng, buồn nôn, nôn, đầy bụng, chán ăn, co thắt dạ dày, tiêu chảy.
  • Rối loạn hệ thần kinh trung ương, chẳng hạn như buồn ngủ, mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, lú lẫn, khó tập trung, rối loạn thị giác, thư giãn cơ
  • Quá mẫn, chẳng hạn như sốt, tưa miệng, tán huyết, ngứa, suy thận cấp tính
  • Nước tiểu đổi màu do chất màu đỏ trong thuốc rifampicin
  • Rối loạn kinh nguyệt hoặc ho ra máu (ho ra máu)

Tuy nhiên, đừng lo lắng vì những tác dụng phụ này chỉ là tạm thời. Rifampicin cũng có rủi ro khi phụ nữ mang thai tiêu thụ vì nó làm tăng khả năng sinh con bị các vấn đề về cột sống (nứt đốt sống).

3. Pyrazinamide

Khả năng của pyrazinamide là tiêu diệt vi khuẩn sống sót sau khi bị đại thực bào (một phần của tế bào bạch cầu đầu tiên chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn trong cơ thể) chiến đấu. Thuốc này cũng có thể hoạt động để tiêu diệt vi khuẩn trong các tế bào có độ pH axit.

Một tác dụng phụ điển hình của việc sử dụng thuốc điều trị lao này là tăng axit uric trong máu (tăng axit uric máu). Đó là lý do tại sao những người bị lao phổi được kê đơn thuốc này cũng phải thường xuyên kiểm soát nồng độ axit uric của họ.

Ngoài ra, các tác dụng phụ khác có thể xảy ra là người bệnh cũng sẽ chán ăn, nhiễm độc gan, buồn nôn, nôn.

4. Ethambutol

Ethambutol là một loại thuốc chống lao có thể ức chế khả năng lây nhiễm của vi khuẩn, nhưng không thể tiêu diệt vi khuẩn trực tiếp. Thuốc này được dùng đặc biệt cho những bệnh nhân có nguy cơ phát triển bệnh lao kháng thuốc (kháng thuốc). Tuy nhiên, nếu nguy cơ kháng thuốc thấp, có thể ngừng điều trị lao bằng ethambutol.

Cách thức hoạt động của ethambutol là kìm khuẩn, có nghĩa là nó ức chế sự phát triển của vi khuẩn M. tuberculosis kháng isoniazid và streptomycin. Thuốc điều trị lao này cũng ngăn chặn sự hình thành của các thành tế bào bằng cách axit mycolic .

Không khuyến cáo sử dụng ethambutol cho bệnh lao ở trẻ em dưới 8 tuổi vì có thể gây rối loạn thị giác và rất khó kiểm soát các tác dụng phụ. Các tác dụng phụ có thể có của ethambutol là:

  • Rối loạn thị giác
  • Mù màu
  • Thu hẹp tầm nhìn
  • Đau đầu
  • Buồn nôn và ói mửa
  • Đau bụng

5. Streptomycin

Streptomycin là loại kháng sinh đầu tiên được chế tạo đặc biệt để chống lại vi khuẩn gây bệnh lao. Trong điều trị bệnh lao hiện nay, người ta dùng streptomycin để ngăn chặn tác dụng của thuốc kháng lao.

Cách thức hoạt động của loại thuốc lao này là tiêu diệt vi khuẩn đang phân chia, cụ thể là bằng cách ức chế quá trình tạo ra protein của vi khuẩn.

Thuốc trị lao Streptomycin được dùng bằng cách tiêm vào mô cơ (tiêm bắp / IM). Thông thường, loại thuốc điều trị lao dạng tiêm này được dùng nếu bạn đã mắc bệnh lao lần thứ hai hoặc nếu việc dùng streptomycin không còn hiệu quả.

Việc dùng thuốc điều trị lao này phải chú ý xem bệnh nhân có vấn đề về thận, đang mang thai, nghe kém hay không. Thuốc này có tác dụng phụ là cản trở cân bằng thính giác nếu dùng hơn 3 tháng.

Phác đồ điều trị lao dựa trên loại bệnh nhân

Như đã giải thích trước đây, có 3 loại bệnh nhân lao được xác định dựa trên kết quả AFB và tiền sử điều trị. Danh mục này sau đó sẽ xác định loại phác đồ điều trị thích hợp.

Theo trang TB Facts, phác đồ điều trị là sự kết hợp của các loại thuốc dùng cho bệnh nhân lao với một mã tiêu chuẩn nhất định, thường ở dạng số và chữ in hoa xác định giai đoạn, thời gian điều trị và loại thuốc.

Ở Indonesia, các tổ hợp thuốc chống lao có thể được cung cấp dưới dạng gói thuốc do kombipak phát hành hoặc thuốc chống lao phối hợp liều cố định (OAT-KDT). Gói kombipak này cho thấy phác đồ điều trị bệnh lao ở Indonesia. Một gói kombipak dành cho một loại bệnh nhân trong một giai đoạn điều trị.

Báo cáo từ các tài liệu của Bộ Y tế Indonesia, các mã được sử dụng trong phác đồ điều trị bệnh lao là:

Kombipak loại I

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZE / 4H3R3

• 2HRZE / 4HR

• 2HRZE / 6HE

Kombipak loại II

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZES / HRZE / 5H3R3E3

• 2HRZES / HRZE / 5HRE

Kombipak loại III

(Giai đoạn chuyên sâu / giai đoạn nâng cao)

• 2HRZ / 4H3R3

• 2HRZ / 4HR

• 2HRZ / 6HE

Với thông tin hiển thị:

H = Isoniazid, R = Rifampicin, Z = Pyrazinamide, E = Ethambutol, S = Streptomycin

Trong khi các con số trong mã chỉ ra thời gian và tần suất. Con số phía trước hiển thị thời lượng tiêu thụ, ví dụ: 2HRZES, nghĩa là nó được sử dụng trong 2 tháng mỗi ngày. Trong khi đó, những con số đằng sau các chữ cái cho biết số lần thuốc đã được sử dụng, như trong 4H3R3 nó có nghĩa là 3 lần một tuần trong 4 tháng.

Khi được tư vấn, bác sĩ thường sẽ cung cấp hướng dẫn về các quy tắc sử dụng combipak này.

OAT-KDT

Trong khi đó, OAT-KDT hay nói chung là Khắc phục sự kết hợp liều lượng (FDC) là hỗn hợp 2-4 loại thuốc chống lao được cho vào một viên.

Việc sử dụng loại thuốc này rất có lợi vì có thể tránh được rủi ro kê đơn sai liều lượng và giúp bệnh nhân tuân thủ các quy tắc dùng thuốc dễ dàng hơn. Với số lượng viên nhỏ hơn, người bệnh dễ dàng quản lý và ghi nhớ công dụng của thuốc.

Cũng có loại thuốc trị lao được đưa vào mỗi ngày trong một tháng nếu ở cuối giai đoạn chuyên sâu, bệnh nhân loại I và bệnh nhân điều trị lặp lại (loại II) có kết quả phết tế bào dương tính.

Nếu bạn bị lao tiềm ẩn, là tình trạng cơ thể bạn đã bị nhiễm vi khuẩn Bệnh lao, nhưng vi khuẩn không nhân lên tích cực, bạn cũng cần phải dùng thuốc điều trị lao ngay cả khi bạn không xuất hiện các triệu chứng của bệnh lao phổi đang hoạt động. Thông thường, bệnh lao tiềm ẩn sẽ được điều trị bằng sự kết hợp của rifampicin và isoniazid trong 3 tháng.

Thuốc điều trị lao kháng thuốc bậc hai

Ngày nay, ngày càng có nhiều vi khuẩn kháng thuốc điều trị lao đầu tiên. Tình trạng kháng thuốc có thể do việc dùng thuốc bị gián đoạn, lịch dùng thuốc không đều đặn hoặc do bản chất của vi khuẩn đã kháng với một số loại kháng sinh.

Tình trạng này được gọi là Lao đa kháng.Kháng nhiều loại). Thông thường, vi khuẩn gây bệnh lao kháng hai loại thuốc điều trị lao, đó là rifampicin và isoniazid.

Những người mắc bệnh lao đa kháng thuốc sẽ được điều trị lao bằng cách sử dụng các loại thuốc bậc hai. Trong nghiên cứu có tên Điều trị Lao và Chế độ Thuốc , việc sử dụng thuốc theo khuyến cáo của WHO cho bệnh nhân lao kháng thuốc, cụ thể là:

  • Pyrazinamide

  • Amikacin có thể được thay thế bằng kanamycin
  • Ethionamide hoặc prothionamide
  • Cycloserine hoặc PAS

Một số loại thuốc điều trị lao hàng thứ hai khác cũng được WHO phê duyệt là:

  • Capreomycin
  • Axit para-aminosalicylic (PAS)
  • Ciprofloxacin
  • ofloxacin
  • Levofloxacin

Bệnh nhân lao kháng thuốc cũng phải lặp lại giai đoạn điều trị lao từ đầu nên tổng cộng cần thời gian dài hơn, ít nhất là 8-12 tháng, có thể lên đến 24 tháng. Các tác dụng phụ của điều trị có thể trầm trọng hơn.

Tại sao điều trị lao lại mất nhiều thời gian?

Vi khuẩn gây bệnh lao Mycobacterium tuberculosis (MTB) , là một loại vi khuẩn có khả năng chống chịu với điều kiện môi trường axit. Khi đã vào trong cơ thể, những vi khuẩn này có thể "ngủ yên" trong một thời gian dài, hay còn gọi là trong giai đoạn không hoạt động. Đó là, ở trong cơ thể, nhưng không sinh sản.

Hầu hết các loại kháng sinh, kể cả những loại được dùng làm thuốc điều trị lao, chỉ có chức năng tiêu diệt vi khuẩn khi chúng ở giai đoạn hoạt động. Trên thực tế, trong trường hợp vi khuẩn lao đang hoạt động, cũng có những vi khuẩn đang ở giai đoạn không hoạt động (không hoạt động).

Trong một nghiên cứu có tên Tại sao cần phải điều trị dài hạn để chữa bệnh lao? Người ta cũng đề cập rằng có hai dạng đề kháng mà MTB này có thể có, đó là kiểu hình (chịu ảnh hưởng của môi trường) và kiểu gen (yếu tố di truyền).

Nghiên cứu chỉ ra rằng sự phong phú của vi khuẩn sẽ làm tăng cơ hội phát triển về mặt kiểu hình kháng thuốc. Do đó, một số vi khuẩn có thể kháng với một số loại kháng sinh trong cùng một thời gian điều trị. Điều đó có nghĩa là vi khuẩn có thể kháng thuốc vẫn phải được điều trị. Đó là nguyên nhân khiến thời gian điều trị lao kéo dài hơn.